Contents
I. CHẨN ĐOÁN VÀ CHẨN ĐOÁN PHÂN BIỆT
Chẩn đoán dựa vào lâm sàng, đánh giá mức độ hôn mê (thang điểm Glasgow), mức độ tổn thương và các biến chứng cơ quan phủ tạng. Các xét nghiệm cần làm để chẩn đoán xác định, chẩn đoán phân biệt và đánh giá mức độ nặng nhẹ của các biến chứng:
– Xét nghiệm ký sinh trùng sốt rét (KSTSR)
Với phết nhuộm Giemsa xác định có sự hiện diện của Plasmodium falciparum trong máu ngoại biên, đến mật độ và định dạng KSTSR cũng giúp đánh giá tiên lượng bệnh. Lượng tương đương 100.000 KST/mm3 máu ờ vùng dịch tễ lây truyền thấp hoặc > 5% tương đương 250.000 KST/mm3 ở vùng dịch tễ lây truyền cao là một tiêu chuẩn năng của sốt rét(WHO 2010).
– Công thức máu:
Hct, hồng cầu, bạch cầu, tiểu cầu, hồng cầu mạng, cấy máu, HBsAg, Mac Elisa, Widal, xét nghiệm dịch não tủy, BUN, creatinine, ion đồ, C 02 content, đường huyết,G6PD, bilirubine, AST, ALT, phosphatase alkaline, điện diproteine, khí máu động mạch (blood gases), đông máu toànbộ, lactate trong máu, lactate trong dịch não tủy, X quang tim phổi, ECG, tổng phân tích nước tiểu.Chẩn đoán phân biệt SRAT với những nguyên nhân khác như:viêm não, viêm màng não, viêm gan siêu vi tối cấp, bệnh xoắn trùng leptospira… hoặc do những nguyên nhân khác như hôn mê do chấn thương sọ não, đột quỵ, hạ đường huyết do tiểu đường,…
II. ĐIỀU TRỊ
Điều trị của SRAT trước hết là phòng ngừa tử vong. Trong điều trị SRAT, việc phòng ngừa các di chứng thần kinh là mục tiêu quan trọng. Điều trị SRAT ở phụ nữ cổ thai thì cứu mẹ là mục tiêu đầu tiên. Artesunate tiêm tĩnh mạch hiện nay chọn lựa hơn Quinine trong điều trị SRAT do p.falciparum malaria ở người lớn,(khuyến cáo mạnh với bằng chứng cơ sở của y học chứng cứ hiện nay – Strong recommendation, high qualityevidence – WHO 2010).
1. Điều trị đặc hiệu (Specific treatment)
Artesunate liều 2,4mg/kg cân nặng tiêm TM chậm hoặc tiêm bắp (mỗi lọ Artesunate 60mg pha với l-2ml bicarbonate
natri 5% lắc kỹ, có thể pha thêm 5 natriclorur 0,9%),tiếp theo là 2,4mg/kg.Ghi chú: Nếu tổng số Artemnate tiêm, có thể sử dụng Artesunate supposixtoire đặt hậu môn hoặc các dẫn của Artemisinin như Artemether (liều đầu 3,2mg/Jcg tiêm bắp, sau đó l,6mg/kg tiêm bắp mỗi ngày sau) để thay thế.
Sau khi bệnh nhân ra khỏi hôn mê, điều trị chống tái phát bằng cho uổng Mểfloquine với liều 15mg/kg cân nặng liều duy nhất.Trường hợp không có Artemisinin và các dẫn xuất thì điều trị đặc hiệu với Quinine dihydrochloride liều đầu 20mg/kg pha trong glucose 5% hoặc natriclorur 0,9%, TTM trong 4 giờ sau đó là 10mg/kg TTM mỗi 8 giờ sau. Truyền TM quinine không quá 5mg/kg/giờ.
Khi bệnh nhân tỉnh có thể uống được thì chuyển sang Quinine uống với liều tương tự (30mg/kg/ngày). Thời gian điều trị là 7-10 ngày. Không dùng Mefloquine cho bệnh nhân điều trị với Quinine.
2. Điều trị hỗ trợ (supportive treatment)
Tùy biến chứng của các cơ quan phủ tạng kèm theo mà có biện pháp điều trị thích hợp.Điều trị tức thời.Bảo đảm đường hô hấp, săn sóc bệnh nhân hôn mê, loại trừ các nguyên nhân hôn mê khác (hạ đường huyết, viêm màng não vi trùng…).Lau mát, hạ nhiệt bằng paracétamol 0,5g-lg bơm qua sonde dạ dày hoặc đặt hậu môn.
Bảo đảm đường hô hấp, tiêm tĩnh mạch với diazepam 10mg hoặc tiêm .bắp phénobarbital 200mg.Đo đường huyết, truyền TM đường ưu .trương 20%-30% hoặc tiêm TM đường ưu trương‘50%.Truyền máu tươi toàn phần hoặc hồng cầu lắng.Biểu hiện lâm sàng:biến chứng,hôn mê,sốt cao hơn 40°c….